Sunday, October 31, 2010

Đề thi Đại học năm 2011 sẽ không có phần riêng

Lưu ý: Các thông tin trong bài viết này chỉ là dự thảo. Quyết định chính thức sẽ được Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành vào tháng 3/2011.
Bộ GD-ĐT vừa đưa ra nhiều nội dung dự kiến thay đổi để lấy ý kiến các trường Đại học, Cao đẳng và các chuyên gia tuyển sinh trước khi chính thức áp dụng cho kỳ tuyển sinh 2011. Theo đó dự kiến kỳ thi ĐH và CĐ năm 2011 sẽ chung đợt, chung đề (không tách riêng kì thi Cao đẳng). Dap an De thi dai hoc nam 2011 khoi A, B, C, D

Chung đề nhưng điểm sàn riêng
Cụ thể, theo dự kiến của Bộ GD-ĐT, so với năm 2010, chỉ tiêu tuyển sinh ĐH và CĐ của năm 2011 sẽ tăng từ 5%-7%, tuyển mới đào tạo thạc sĩ tăng 10%, tiến sĩ tăng 15%. Thay vì tổ chức thi riêng cho hệ CĐ thì năm 2011 sẽ tổ chức thi CĐ chung (chung đề, chung đợt) với hai đợt thi ĐH để tránh số lượng ảo khi thí sinh đăng ký dự thi cả ĐH và CĐ, giảm thiểu chi phí đi lại cho thí sinh cũng như đỡ tốn kém cho các trường trong khâu tổ chức.
  
Đề thi  Đại học năm 2011 sẽ không có phần riêng
Thí sinh làm thủ tục tuyển sinh ĐH, CĐ tại TPHCM năm 2010.

Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho biết nếu nhận được đồng thuận, kỳ thi ĐH và CĐ sẽ thi chung đợt và chung đề, tuy nhiên vẫn xác định điểm sàn riêng cho ĐH và CĐ. Một nội dung nữa là đề thi chỉ có phần chung chứ không có phần riêng, nội dung đề thi sẽ ra trong phần giao thoa kiến thức giữa chương trình chuẩn và chương trình nâng cao.

Bộ cũng dự kiến sẽ phát hành đồng thời những điều cần biết về tuyển sinh cả bản điện tử và bản giấy, bổ sung thêm cụm thi Sơn La và cụm thi Thái Nguyên, bỏ điều 33 của quy chế tuyển sinh hiện hành (về mức chênh lệch điểm trúng tuyển giữa các nhóm đối tượng ưu tiên và giữa khu vực kế tiếp...) bởi chất lượng đầu vào của các trường vận dụng thấp hơn so với các trường không được vận dụng.
Lưu học sinh nước ngoài 
được dự thi
Dự kiến năm 2011, các trường thuộc khối năng khiếu, nghệ thuật, thể dục thể thao (thi các khối H, M, T, R, S...) sẽ chịu trách nhiệm trong các khâu ra đề, tổ chức thi, coi thi, chấm thi, xét tuyển và triệu tập thí sinh trúng tuyển. Về đối tượng dự thi, Bộ GD-ĐT bổ sung đối tượng là lưu học sinh nước ngoài với điều kiện có đủ trình độ tiếng Việt để theo học, đạt yêu cầu kiểm tra kiến thức do hiệu trưởng các trường quy định...

Giảm quy mô hệ vừa làm vừa học

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận cho biết song song với việc tăng chỉ tiêu tuyển sinh hệ chính quy trong mùa tuyển sinh 2011, chủ trương của bộ là giảm dần quy mô đào tạo hệ vừa làm vừa học của các trường ĐH, đặc biệt là các trường ĐH tốp đầu; giảm dần chỉ tiêu đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, CĐ, mở rộng đào tạo sau ĐH.

Đối với việc tuyển sinh hệ vừa làm vừa học, Bộ GD-ĐT sẽ sửa đổi, bổ sung quy chế tuyển sinh theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường ĐH trong tất cả các khâu liên quan. Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cũng cho biết sẽ xây dựng quy chế tuyển sinh đặc thù, thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu của xã hội ở các khu công nghiệp tập trung, các vùng miền khó khăn.

Để nâng cao chất lượng đào tạo ĐH, CĐ, Bộ GD-ĐT sẽ tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ chỉ tiêu tuyển sinh đối với những cơ sở giáo dục ĐH thành lập trước năm 2010 nhưng chưa xây dựng được cơ sở riêng tại địa điểm theo hồ sơ đăng ký thành lập; đôn đốc các trường thực hiện các cam kết trong đề án thành lập trường, cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, chương trình, giáo trình.

Ngoài ra, Bộ GD-ĐT cũng sẽ tập trung thanh, kiểm tra việc thẩm định hồ sơ thành lập trường, việc thực hiện thu, chi trong các trường ĐH, CĐ, quy chế thực hiện công khai.
Theo NLĐ/DT

Dựng thập giác đều bằng thước thẳng và compa

Trong bài viết trước, tuyensinhvnn đã hướng dẫn cách dựng một ngũ giác đều. Bài viết này sẽ nêu các bước dựng một thập giác đều bằng thước thẳng và compa.
Dựng thập giác đều bằng thước thẳng và compa
Bước 1. Dựng ngũ giác đều ABCDE nội tiếp đường tròn (O) (Xem hướng dẫn chi tiết ở đây).
Bước 2. Lần lượt kẻ các đường thẳng đi qua mỗi đỉnh của ngũ giác đều ABCDE và tâm O của đường tròn. Các đường thẳng này cắt đường tròn lần lượt tại M, N, P, Q, R.
Bước 3. Nối AMBNCPDQER ta được một thập giác đều.
Dựng thập giác đều bằng thước thẳng và compa

Thursday, October 28, 2010

Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng

Bài viết này sẽ nêu các bước dựng NGŨ GIÁC ĐỀU bằng compa và thước thẳng. tuyensinhvnn tạm thời chia thành 5 bước như sau:

Bước 1. Dựng đường tròn tâm O và 2 đường kính vuông góc AR và PQ (Lấy đường kính PQ, sau đó dùng compa và thước thẳng để dựng đường trung trực của đoạn PQ. Đường thẳng này cắt (O) tại A và R).
Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng
Bước 2. Dựng trung điểm M của đoạn PO. Sau đó dựng đường tròn tâm M bán kính MA, cắt PQ tại N.
Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng
Bước 3. Dựng đường tròn tâm A, bán kinh AN. Đường tròn này cắt (O) tại 2 điểm B, E.
Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng
Bước 4. Dựng đường tròn tâm B, bán kính BA, cắt (O) tại điểm khác A là C. Dựng đường tròn tâm E, bán kinh EA, cắt (O) tại điểm khác A là D.
Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng
Bước 5. Nối ABCDE ta được một ngũ giác đều.
Các bước dựng ngũ giác đều bằng compa và thước thẳng
tuyensinhvnn.com

Monday, October 25, 2010

Chuyên đề Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ

Chuyên đề Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ - Tuyen tap cac chuyen de tu Tap chi Toan hoc va Tuoi tre.
Chuyên đề Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ
1. Các chuyên đề Luyên thi Đại học từ Toán học và Tuổi trẻ: Download
2. Chuyên đề Lượng giác từ Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ: Download
3. Các chuyên đề dành cho học sinh THCS từ TH&TT: Download
4. Các chuyên đề Đại số và Hình học từ Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ: Download
Xem thêm :
+ Tuyển chọn theo chuyên đề TH&TT - Quyển 3
+ Tuyển tập 5 năm Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ
+ Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ tháng 10, 9, 8, 7 năm 2010 
+ Đề thi thử Đại học từ Tạp chí Toán học tuổi trẻ

Friday, October 22, 2010

Về bài "Bản đồ tư duy" trên tạp chí THTT số 400 (10-2010)

Tạp chí Toán học Tuổi trẻ số 400 có bài viết của Trần Đình Châu (Bộ GD-ĐT) và Đặng Thu Thủy (Viện khoa học Giáo dục Việt Nam) nhan đề: "Thiết kế bản đồ tư duy giúp học sinh tự học và tập dượt nghiên cứu Toán học".
Thứ nhất, thực ra trong bài viết đó, bản đồ tư duy chỉ giúp học sinh hệ thống và ghi nhớ kiến thức tốt hơn mà thôi, chẳng thấy "tập dượt nghiên cứu Toán học" ở đâu cả.
Thứ hai, các bản đồ tưu duy mà ông Châu và bà Thủy vẽ không đảm bảo nguyên tắc của một sơ đồ tư duy. Vì theo Tony Buzan: "Màu sắc mang đến cho bản đồ tư duy những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo". Ấy thế mà các bản đồ trong tạp chí quá đơn điệu về màu sắc (Hình 2 chỉ có "một màu xanh xanh", Hình 3 thì độc đáo hơn với "một màu đen đen").
Thứ ba, với Hình 3 các tác giả còn vẽ bằng tay và viết những chữ nguệch ngoạc lên trên. Một tạp chí lớn như THTT mà cho in những hình vẽ xấu xí như vậy? (Đi xuống quá nhiều về hình thức trình bày).
Các bạn hãy xem qua 2 "bản đồ tưu duy" đã đăng trên THTT số 400 (tháng 10/2010)...
So do tu duy tony buzan
... và xem sơ đồ tư duy (ứng với Hình 2) mà tuyensinhvnn.com đã vẽ lại (click vào hình vẽ để xem ảnh ngang)
phan mem ve so do tu duy
Hình 3 cũng có thể thiết kế tương tự để trực quan sinh động hơn.

Thursday, October 21, 2010

Mô hình trường học sáng tạo của Microsoft

KHÁI NIỆM TRƯỜNG HỌC SÁNG TẠO

Trường học sáng tạo là một mô hình trường học do Microsoft đề xướng, nhằm thúc đẩy các quốc gia chưa cho điều kiện phát triển giáo dục có thêm mô hình để tham khảo trong quá trình xây dựng nhà trường tiên tiến và hiện đại.
Mo hinh truong hoc sang tao cua microsoft
Trường học sáng tạo theo mô hình của Microsoft đảm bảo sự kết hợp hài hòa của các thành phần chính trong và ngoài nhà trường. Mô hình Trường học sáng tạo thúc đẩy các thành phần trên kết hợp hài hòa tạo nên một khối thống nhất, hiệu quả trong việc thực hiện những yêu cầu của nhà trường trong thế kỷ 21:
  1. Đào tạo học sinh tương lai đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn cầu, có hiểu biết và kỹ năng công nghệ tốt phục vụ học tập và công việc trong tương lai.
  2. Tạo điều kiện để giáo viên đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quan hệ giao tiếp tốt với cộng đồng giáo viên trong và ngoài nước, cũng như với học sinh và phụ huynh.
  3. Tạo môi trường quan hệ giao tiếp tốt với phụ huynh, học sinh và xã hội trên căn bản tận dụng phương tiện CNTT và truyền thông để nâng cao hiệu quả và tiết kiệm thời gian.
  4. Công khai mọi thông tin về các hoạt động của trường cho xã hội thông qua website của trường để xã hội biết, hiểu và đồng thuận với các chủ trương của nhà trường.
TIÊU CHÍ CỦA TRƯỜNG HỌC SÁNG TẠO

1. Ban lãnh đạo nhà trường:
a. Sự thay đổi về tư duy và đổi mới giáo dục
  • Khuyến khích, tạo điều kiện và duy trì các giờ học có sự ứng dụng CNTT.
  • Tổ chức các buổi đào tạo cho giáo viên trong trường về phương pháp giảng dạy mới
  • Nhân rộng mô hình Hướng dẫn đồng nghiệp trong cộng đồng nhà trường.
  • Đưa vào áp dụng một số giáo trình mới để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh (VD: Live@edu)
b. Tăng cường giao lưu và chia sẻ với cộng đồng
  • Tích cực tham gia Innovative Schools Network.
  • Xây dựng hệ thống thông tin và quản lý trong nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả liên lạc và hợp tác giữa nhà trường, giáo viên, học sinh, và phụ huynh.
  • Tích cực tham gia các hội thảo của Sở và/hoặc Phòng Giáo dục để phổ biến các bài học kinh nghiệm từ thành công của trường mình.
2. Giáo viên:
  • Chủ động áp dụng phương pháp giảng dạy mới với sự tích hợp CNTT.
  • Tích cực tham gia mô hình Hướng dẫn đồng nghiệp trong nhà trường.
  • Tích cực tham gia diễn đàn Giáo viên sáng tạo Việt Nam và toàn cầu.
  • Tích cực tham gia cuộc thi Giáo viên sáng tạo của Microsoft.
3. Học sinh:
  • Chủ động sử dụng CNTT trong các hoạt động học tập trong và ngoài nhà trường.
  • Tham gia tích cực các cuộc thi sáng tạo dành học sinh.
4. Cơ sở vật chất
  • Điều kiện lớp học đảm bảo việc ứng dụng CNTT hiệu quả.
  • Ít nhất 1 phòng máy đủ tiêu chuẩn, kết nối internet để giáo viên và học sinh có thể truy cập thông tin và học tập mọi lúc, mọi nơi.
Xem thêm các vấn đề liên quan đến MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC SÁNG TẠO CỦA MICROSOFT ở file này: Download

Wednesday, October 20, 2010

Trí thông minh của người Việt so với thế giới

Nếu kết hợp cả số công trình đã được đăng với số người làm công tác khoa học- công nghệ (ta đông hơn Thái 5 lần) thì "sản phẩm trí tuệ" tính theo đầu người của ta bằng 1/25 của Thái (nói nôm na, một nhà khoa học của Thái tạo ra "sản phẩm trí tuệ bằng 25 nhà khoa học Việt). 
Lý thuyết giỏi nhưng làm... không giỏi
Tôi xin kể lại một câu chuyện như một kỷ niệm nhỏ của mình. Cách đây hơn 40 năm, tôi được cử đi làm thực tập sinh khoa học (sau đại học) ở Tiệp khắc. Do "ăn theo" ông thầy, tôi được "ghé tên" vào mấy bản báo cáo ở Hội nghị quốc tế chuyên ngành đôi ba lần và được đi dự cùng ông. ĐSQ biết chuyện này, và trong một Hội nghị các sinh viên tiên tiến, tôi được ông Bí thư thứ nhất (đã mất từ lâu) báo tin tôi được báo cáo điển hình tại "Hội nghị những lưu học sinh tiến tiến" tại Tiệp.
Song bản báo cáo phải viết trước để ông thông qua (hồi đó cẩn thận lắm, không được phát biểu tự do). Trong báo cáo tôi có kể lại chuyện của mình và rút kinh nghiệm, đại khái là chúng ta có thể học giỏi nhưng sau khi ra trường làm không giỏi như họ. Cùng một công việc, họ thường có suy nghĩ và cách giải quyết "sáng" hơn mình, độc đáo hơn mình. Có thể mình "bí" nhưng họ vẫn tìm được lối ra.
Lúc tôi sắp lên đường đến hội nghị (cách khoảng 500 km) thì nhận được hồi âm "Quan điểm sai, đầy tinh thần tự ti dân tộc. Cậu không phải đi họp nữa". Tôi bị ám ảnh khá lâu vì "quan điểm sai lầm" của minh...
Sau khi hết hạn thực tập, tôi về nước (năm 1971), lúc qua Matxcơva may mắn được ở cùng phòng với nhà thơ Lưu Trọng Lư, trên chuyến tàu hoả từ Liên Xô về Việt Nam. Những ngày trên đường, 2 bác cháu nói chuyện với nhau khá nhiều. Khi tôi mang chuyện này ra hỏi, ông hoàn toàn đồng ý. Ông bảo đó cũng là điều ông rút ra từ bản thân mình và các bạn bè thời Pháp.
Chẳng có gì lạ vì cái học của mình, ngày xưa thì tầm chương trích cú, sau này thì học "gạo", lấy chăm chỉ, cần cù làm chính nên học "giỏi" là đương nhiên. Sự học là như vậy. Khi ra làm việc, phải chủ động, sáng tạo, phải quyết đoán, cái "yếu" của mình mới thể hiện. Ý kiến đó sau này tôi cũng được giáo sư Nguyễn Thạc Cát (đã mất năm 2002) chia sẻ.
Trí thông minh của người Việt so với thế giới
Giỏi lý thuyết nhưng không giỏi thực hành

Tôi có thể nêu một thí dụ nữa. Anh N.M.N bạn tôi làm ở ngành Địa chất. Một buổi ngồi chuyện trò với nhau, anh tâm sự: Hồi học ở Liên Xô những năm 60, mình học cùng nhóm với thằng S.V - người Nga - và thường xuyên phải giúp nó học và làm bài tập. Tốt nghiệp mình bằng đỏ, nó bằng thường. Hơn 10 năm sau, nó sang Việt Nam làm chuyên gia, mình được phân công làm việc cùng với nó. Lúc đầu, cũng bực: "Chuyên gia gì mày. Mày còn nhớ những lúc tao làm bài hộ mày chứ !". Nhưng dần dần, mình ngày càng "sợ" nó. Nó nhận định và giải quyết những chuyện chuyên môn ở mức mình không phải người tranh cãi với nó nữa mà chỉ đóng vai trò... phiên dịch cho nó mà thôi. Chuyện! Nó ra công tác với đầy đủ điều kiện làm việc, lại bám được một "sư phụ" cực giỏi, kinh nghiệm đầy mình để học hỏi, trong khi ở cái đội thăm dò của mình, mình là... trùm.
Biết bao nhiêu lý do để có hiện tượng "học giỏi nhưng làm không giỏi của "ta" và "tây". Từ cách dạy, cách học ở trường phổ thông, không gợi mở, không khuyến khích sáng tạo đến thiếu điều kiện làm việc khi ra trường để phát triển... Việc học giỏi nhưng làm không giỏi lắm khiến người Việt mình dường như đến một lúc nào đó không "bật" được nữa, có muôn ngàn lý do...
"Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời"
Một dân tộc không thông minh không thể tồn tại và phát triển trải qua 4000 năm với biết bao nhiêu sức ép mãnh liệt từ bên ngoài. Một dân tộc đã thắng được ba cường quốc mạnh hơn mình và trình độ phát triển cao hơn mình là một sự thông minh tuyệt vời. Song nội dung của bài này chỉ giới hạn sự thông minh trong những sáng tạo khoa học công nghệ như chúng ta thường quan niệm.
Có ý kiến cho rằng các nhà khoa học công nghệ Việt Nam ít công trình được công bố chỉ vì không gửi đăng. Vì quá "biết mình biết người"? Vì những sự e ngại, rơi rớt từ thời đóng cửa? Vì ngoại ngữ yếu? Vì các thiết bị nghiên cứu còn lạc hậu nên số đo không được chấp nhận? Vì thành kiến của người nước ngoài đối với khoa học công nghệ VN? Vì chính sách của nhà nước, của ngành chưa thích hợp? Kinh phí nghèo nàn, đời sống quá khó khăn? Rất có thể có nhiều lý do làm "trí tuệ VN" chưa phát huy được, nhưng cũng có nhiều lý do mà các nhà khoa học VN không thể biện minh.
Nói thông minh nhiều hay ít cứ phải có dẫn chứng cụ thể. "Sản phẩm của sự thông minh" đối với những người lao động trí óc là những công trình nghiên cứu và hiệu quả của chúng mang lại. Điều quan trọng nữa là cần có sự so sánh để hiểu chúng ta có bao nhiêu "sản phẩm" loại này và những nước xung quanh có bao nhiêu. Sản phẩm đầu tiên là số công trình nghiên cứu và triển khai - nói lên bức tranh về sự thông minh của nhân loại - lên tới hàng triệu bài báo mỗi năm, được công bố trên khoảng 9.000 tạp chí chuyên môn có uy tín quốc tế. Tôi xin nhắc lại các số liệu mà tôi ghi lại cách đây nhiều năm (Trần Minh Tiến, trên tờ Tia Sáng 2-2004).
Không dám dẫn ra bất cứ một nước trung bình nào, tác giả chỉ so sánh 3 nước vào thời điểm năm 1973 có điểm xuất phát gần như nhau là Thái Lan, Singapore và Việt Nam, thì đến năm 2000, số công trình được đăng trên các tạp chí khoa học của ta chỉ bằng của Thái Lan và Singapore năm 1980. Còn hiện nay, Thái nhiều hơn ta đến 5 lần, Singapore nhiều hơn ta 12,5 lần.
Một số liệu khác còn "gây sốc" hơn: Trong 30 năm qua, số lượng các bài báo về y- sinh học của VN được công bố trên các tạp chí quốc tế trên dưới 300 bài, thì của Malaysia - 2.100 bài (gấp 7 lần), Thái Lan- 5.210 bài (gấp 14 lần), Singapore khoảng 7.000 bài (gấp 23 lần).
Nếu kết hợp cả số công trình đã được đăng với số người làm công tác khoa học- công nghệ (ta đông hơn Thái 5 lần) thì "sản phẩm trí tuệ" tính theo đầu người của ta bằng 1/25 của Thái (nói nôm na, một nhà khoa học của Thái tạo ra "sản phẩm trí tuệ bằng 25 nhà khoa học Việt). Một con số thật nghiệt ngã!!!. Số liệu này là của trước đây 5 năm. Hiện nay, khoảng cách về các số liệu trên ngắn lại, giữ nguyên hay dài hơn, tôi chưa có thời gian tìm hiểu, song dù sao thì sự chênh lệch cũng vẫn quá lớn.
Có ý kiến cho rằng các nhà khoa học công nghệ Việt Nam ít công trình được công bố chỉ vì không gửi đăng. Vì quá "biết mình biết người"? Vì những sự e ngại, rơi rớt từ thời đóng cửa? Vì ngoại ngữ yếu? Vì các thiết bị nghiên cứu còn lạc hậu nên số đo không được chấp nhận? Vì thành kiến của người nước ngoài đối với khoa học công nghệ VN? Vì chính sách của nhà nước, của ngành chưa thích hợp? Kinh phí nghèo nàn, đời sống quá khó khăn? Rất có thể có nhiều lý do làm "trí tuệ VN" chưa phát huy được, nhưng cũng có nhiều lý do mà các nhà khoa học VN không thể biện minh.
Tiêu chuẩn thứ 2 mang tính thực dụng hơn, là các bằng sáng chế phát minh đăng ký trên trường quốc tế. Đây là những con số tổng kết của năm 2009 của Tổ chức sở hữu trí tuệ quốc tế WIPO, mà VN là thành viên, thậm chí còn được khen ngợi là "thành viên hoạt động hiệu quả", và cũng xin được chỉ trích những nước trong khu vực.
Kết quả có thể khiến một người tự trọng "đỏ bừng mặt": Năm 2009, Singapore đăng ký 493 bằng phát minh, trong tổng số bằng của họ trong kho tàng phát minh của nhân loại (cũng tính đến hết năm 2009) là 4.959 bằng, của Malaysia tương ứng là 181 và 1.298, của Thái Lan là 39 và 519, của Philippin là 25 và 379, của Indonesia là 18 và 253, của Việt Nam là...2 và 14. Đọc những con số ấy, người Việt nào chẳng thấy rưng rưng, "cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời".
Trí thông minh của người Việt so với thế giới
Cũng có thể mình có những phát minh gì còn "giữ lại để dùng" mà chưa công bố với thế giới chăng?
Tại sao sản phẩm trí tuệ của Việt Nam ít như vậy? Một đội ngũ hùng hậu với gần 2 triệu người làm KHCN, hàng vạn thạc sĩ, hàng vạn tiến sĩ, gần 2.000 GS, gần 6.000 Phó GS và hàng triệu cử nhân, kỹ sư, trung cấp kỹ thuật mà trong một năm chỉ đăng ký được có 2 phát minh được quốc tế chấp nhận thôi sao?
Bản báo về phát minh sáng chế của Canada có ghi chú: Số phát minh sáng chế hàng năm tuy phản ảnh một chỉ số sáng tạo nhưng đôi khi có thể không chính xác (đọc đến đây, tôi hy vọng có "lý do chính đáng" để yên tâm). Họ cho biết đó là những phát minh lớn, giá trị kinh tế cao song người ta không đăng ký, sợ bị lộ một bí quyết sản xuất lớn, làm nên sản phẩm đặc trưng chỉ mình mới có, các nước khác phải phụ thuộc vào mình.
Rất có thể như vậy, nhưng tôi chưa nghĩ ra là "bí quyết" gì khiến ta không đăng ký ?
Cũng có thể mình có những phát minh gì còn "giữ lại để dùng" mà chưa công bố với thế giới chăng?
Những quan điểm trên đây có thể nông cạn, chủ quan, "tự ti dân tộc" và đồng thời nguồn thông tin tiếp cận chắc chắn còn hạn chế. Rất mong được sự phản biện, trao đổi lại của bạn đọc, để từ việc tìm ra nguyên nhân của những yếu kém, chúng ta có những giải pháp khẳng định có tính thuyết phục về trí thông minh của người Việt?

tuyensinhvnn.com (Theo Tuần Việt Nam)

Tuesday, October 19, 2010

Người Việt thông minh đến đâu?

Thật khó phán xét trí thông minh của một người, chưa muốn suy rộng ra sự thông minh của cả một cộng đồng, một chủng tộc, một dân tộc. Bởi thông minh có thể có rất nhiều loại.

Thông minh và những khái niệm khác biệt
Xưa kia, trong những câu chuyện kể, các thần đồng ở nước ta được coi là thông minh xuất chúng qua những câu ứng đối, "xuất khẩu thành thi" và nhất là đối ngay được một vế đối đặt ra ("xuất đối dị, đối đối nam" mà!), kể cả những câu đối bằng chữ Hán phức tạp bao gồm cả chiết tự, điển tích...
Cách kiểm tra ấy tuy không tính thành điểm cụ thể nhưng có thể coi là kiểu xác định IQ của ta. Nhiều sự nghiệp của một danh nhân chúng ta chẳng biết được gì hơn, ngoài khoảng một chục đôi câu đối "để đời". Điều này cũng tương tự với việc đo chỉ số IQ ở chỗ là so sánh sự phát triển trí tuệ vượt trội của những người cùng lứa tuổi (IQ vốn là thương số thông minh, xác định tỷ số giữa tuổi trí tuệ và tuổi sinh học).
Cũng theo truyền thuyết này, nhiều "thần đồng" giỏi ứng đối ấy thường là những vị đỗ đầu (tức Trạng nguyên) trong cuộc thi tuyển của Triều đình, thậm chí ngay khi còn ở lứa tuổi thiếu niên, mới 13, 14 tuổi đã "cưỡi cổ" thiên hạ.
Người Việt thông minh đến đâu?
Trạng Lường Lương Thế Vinh
Thông minh đôi khi có thể đánh giá qua sự nhanh trí giải quyết một vần đề cụ thể. Có thể lấy Trạng Lường Lương Thế Vinh (1441-1495) làm ví dụ. Từ hồi nhỏ, ông đã tìm được cách đổ nước để lấy quả bưởi trong hố lên, sau này khi đã là Trạng, nổi tiếng cả ở Trung Quốc, đã giải những bài toán kiểu "cân voi", "xác định chiều dày một tờ giấy" theo thách đố của sứ Tàu (mà những bài toán kiểu này chắc các em lớp 3, lớp 4 ngày nay cũng nghĩ ra ngay)...
Theo sử liệu, ông là tác giả của tác phẩm là "Đại thành toán pháp", được nói đến như sách giáo khoa cho các sĩ tử suốt mấy trăm năm (?). Nhưng bản thảo đã thất truyền khiến ta không thể bíết đó có phải những phát minh về Toán học (hoặc chỉ là những tổng kết) và ở mức độ nào trong lịch sử Toán học thế giới.
Cùng năm sinh với Lương Thế Vinh, còn có Vũ Hữu, được vua Lê Thánh Tông khen là "Thần toán", viết cuốn "Lập thành toán pháp" cũng thất truyền, nói về cách đo tính ruộng đất rất phổ biến trong toàn quốc.
Hiểu "thế nào là thông minh" khác nhau khá nhiều từ Đông sang Tây. Khoa học hiện đại dù bộ môn Thần kinh học rất phát triển: Đo điện não đồ, quét não, chụp não, xác định tốc độ truyền dẫn thần kinh, rồi khám phá bản đồ gen để biết tập hợp những nhóm ADN nào liên quan đến khả năng gì... vẫn chẳng thể cho ta một câu trả lời rõ ràng, thuyết phục.
Những tranh luận xung quanh trí thông minh đã, đang và sẽ tốn không biết bao nhiêu thời gian và giấy mực nữa, song dù chưa có những nhất trí, người ta vẫn tuyển chọn, bồi dưỡng và thu hút được nhân tài với những thành công đáng kể và thu được những hiệu quả xã hội lớn.


9 kiểu thông minh và "những nhà bác học ngốc nghếch"
Theo phân loại của Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner (Hoa Kỳ) được nhiều người thừa nhận (và thường gọi là thuyết đa thông minh - theory of multiple intelligences), có ít nhất 7 kiểu thông minh (thông minh về lời nói, ngôn ngữ; thông minh về logic, toán học; thông minh về thị giác, không gian; thông minh về âm nhạc; thông minh về cơ thể, cử chỉ; thông minh về xã hội, giao tiếp; thông minh về nội tâm). Sau này, người ta còn bổ sung thêm hai kiểu thông minh nữa là trí thông minh thiên nhiên và trí thông minh sinh tồn.
Cách phân chia như vậy dường như không có sự phân biệt giữa 2 khái niệm "thông minh" và "năng khiếu". Mà theo cách hiểu thông thường một số dạng thông minh mà Gardner nói đến chỉ là năng khiếu mà thôi.
Vả chăng, trong ngôn ngữ học, đôi khi không có những từ ngữ đối chiếu hoàn toàn tương đương nên nếu đi sâu hơn nữa sẽ không tránh khỏi những tranh luận kéo dài.
Việt Nam sử lược của học giả Trần Trọng Kim (viết năm 1919, cách đây gần một thế kỷ) đã nhận xét: "Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính xấu lẫn tính tốt. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, lễ, nghĩa, trí tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt và hay bài bác, nhạo chế".
Nếu quả thực về đàng trí tuệ, nếu "trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, ..., sàng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức", thì đó mới chỉ là những lợi điểm có thế phát huy ở giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Học hành để tích luỹ kiến thức, dùng cho giai đoạn chủ yếu của cuộc đời là làm việc, gây dựng sự nghiệp, nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Chính tại giai đoạn chủ yếu này, trí thông minh thể hiện rõ nét và phát huy.
Lại còn những trường hợp những người bị tự kỷ (autisme) khó mà đánh giá là người thông minh mà ngược lại (theo cách nghĩ thông thường) nhưng lại trở thành những danh họa, những nhạc công tuyệt với, chỉ nghe một bản giao hưởng một lần là nhớ hoặc từ trên máy bay, bay ngang qua một thành phố lớn, trở về có thể vẽ lại từng vị trí, hình dáng các công trình kiến trúc hoàn toàn chính xác. Hiện tượng đó, các nhà tâm lý gọi là "hội chứng các nhà bác học ngốc nghếch". Nhà phát minh thiên tài của nhân loại (tất nhiên, một đầu óc sáng tạo khủng khiếp) là Edison thuở nhỏ chẳng bị đuổi học vì "không có khả năng học tập" đó sao? Rồi Einstein thuở nhỏ nghe nói cũng bị tự kỷ.
Mỗi kiểu thông minh theo phân loại trên có những phẩm chất và khả năng cơ bản, có thể có hoặc không liên hệ với nhau. Mỗi kiểu có một vùng khác nhau trên não bộ phụ trách (?) và đều có thể cải tạo, phát huy.
Cách phân loại ấy có thể giải thích thoả đáng vì sao một người học hành rất dở nhưng lại thành công trong kinh doanh hoặc trên chính trường. Vì sao một thiên tài toán học đầy đủ các bằng cấp, danh hiệu, giải thưởng, song khi đặt vào vị trí lãnh đạo một viện Toán lại để cho cơ quan bí bét, rối beng.
Người ta đã từng vận dụng cách phân loại này để hướng nghiệp cho học sinh, nhằm sắp xếp "người nào việc ấy", "dụng nhân như dụng mộc", "hạn chế sở đoản, phát huy sở trường" làm lợi cho bản thân người lao động, tăng hiệu quả phục vụ xã hội.
Cũng như vậy, để tuyển những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ như hoạt động khoa học chẳng hạn, cần lựa chọn những người nổi trội về trí thông minh logic, sáng tạo... Đó là những người có khả năng tiếp thu những kiến thức mới nhanh, nhạy cảm, chính xác và có khả năng tự tìm ra những kiến thức mới (khả năng khai phá) trong từng vấn đề cụ thể, và trí thông minh theo cách hiểu thông thường thuộc loại này.
Người Việt thông minh đến đâu?
Albert Einstein

Hiện tượng thông minh của người Do Thái
Nếu trí thông minh có tính cá nhân, thì chủng tộc, cộng đồng và cả một dân tộc có vai trò gì không? Nói cách khác, có chủng tộc nào có trí thông minh vượt trội không? Khẳng định điều này rất dễ rơi vào "thuyết ưu sinh" của chủ nghĩa quốc xã Đức.
Năm 1994, tác phẩm "Đường cong hình quả chuông" của hai tác giả Herrstein và Muray, trên cơ sở phân tích chỉ số IQ đã rút ra một loạt kết luận khi áp dụng vào xã hội, không những chỉ gây tiếng vang rộng rãi trong giới khoa học mà còn bị phản ứng gay gắt của quần chúng đối với nó. Thậm chí các tác giả còn bị lên án là "phân biệt chủng tộc" khi đề cập đến trí thông minh của các cộng đồng trong một xã hội.
Nếu quả thật trí thông minh bị tách rời khỏi chủng tộc, tại sao khi GS Ngô Bảo Châu được giải Toán học Fields tầm cỡ lớn của quốc tế, từ các lãnh đạo cao cấp đến báo chí đều nói "điều đó chứng tỏ "trí tuệ của dân tộc Việt Nam" không hề thua kém"?
Lại nữa, trong cuộc tranh luận của Quốc hội, liệu có nên đường sắt cao tốc không, một vị đại biểu nói "những nước có chỉ số IQ cao đều làm đường sắt cao tốc". Nói như vậy có hàm ý trí thông minh có gắn với dân tộc hay không? Chắc chắn là có hàm ý ấy.
Những thống kê về tỷ lệ các giải thưởng quốc tế như giải Nobel, giải Fields... mà người "gốc Do Thái" sở hữu, những nhân vật gốc Do Thái đứng đầu các ngành văn học, nghệ thuật và cả chính trường nữa buộc ta phải suy nghĩ đến sự liên quan giữa trí thông minh và chủng tộc.
Song từ thông minh đi đến thành công thì còn phải đòi hỏi nhiều điều kiện nữa, bao gồm cái tạm gọi là "nội lực" (phẩm chất cá nhân) và "ngoại lực" (môi trường và diều kiện làm việc).
Tuy nhiên, không thể nói dân tộc nào thông minh hơn dân tộc nào vì thế giới phát triển không đồng đều vì khoảng cách giữa các nước quá chênh lệch và ngày càng chênh lệch, khiến chẳng bao giờ mọi người được bình đẳng về điều kiện sống và làm việc.
Người Việt thông minh đến đâu?
Từ thông minh đi đến thành công thì còn phải đòi hỏi nhiều điều kiện

Người Việt Nam có thông minh không ? 

"Người Việt Nam rất thông minh, cần cù lao động", "đất nước ta rừng vàng biển bạc, ruộng đất phì nhiêu, tài nguyên đa dạng và phong phú"... Đó là những điều chúng ta được dạy dỗ từ khi bắt đầu cắp sách đến trường, được nói đến trong những cuốn sách giáo khoa dùng cho học sinh và tự giới thiệu ra nước ngoài.
Tuy vậy cũng có những quyển sách viết dè dặt hơn. Chẳng hạn Việt Nam sử lược của học giả Trần Trọng Kim (viết năm 1919, cách đây gần một thế kỷ) đã nhận xét: "Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính xấu lẫn tính tốt. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, lễ, nghĩa, trí tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt và hay bài bác, nhạo chế".
Nếu quả thực về đàng trí tuệ, nếu "trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, ..., sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức", thì đó mới chỉ là những lợi điểm có thế phát huy ở giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Học hành để tích luỹ kiến thức, dùng cho giai đoạn chủ yếu của cuộc đời là làm việc, gây dựng sự nghiệp, nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Chính tại giai đoạn chủ yếu này, trí thông minh thể hiện rõ nét và phát huy.
Bằng sự trải nghiệm của một người đã làm công tác nghiên cứu khoa học ở tuổi ngoài 70 và cố gắng khách quan, không e ngại ý kiến của mình có thể đụng chạm, tôi xin đưa ra một nhận định cá nhân. Đó là: Người Việt chỉ thông minh vừa phải mà không thuộc loại thật xuất sắc.

tuyensinhvnn.com (Theo Tuần Việt Nam)

Tạp chí Toán học Tuổi trẻ tháng 10/2010 (số 400)

tap-chi-toan-hoc-tuoi-tre-thang-10-2010-so 400.JPG
Tạp chí Toán học Tuổi trẻ tháng 10/2010 (số 400) có một số bài viết đáng chú ý sau:
Phan Mạnh Hà - Tính giá trị của biểu thức nhiều biến có điều kiện
Phạm Văn Hùng - Một số lưu ý khi giải hệ phương trình
Trước cổng trường ĐH - Đề thi thử vào Đại học số 1
Kiều Đình Minh - Cách giải một số dạng toán giới hạn dãy số đặc biệt
Trần Đình Châu - Thiết kế bản đồ tư duy cho học sinh nghiên cứu Toán học.
Download tap chi Toan hoc Tuoi tre so 400 thang 10 2010

Cảm ơn bạn ToanDHSP đã cung cấp link download ở bài viết này (tuyensinhvnn.com  đã save sang link mới).
Xem thêm: Tạp chí THTT tháng 7,8,9 (số 397, 398, 399)

Monday, October 18, 2010

Chứng minh bất đẳng thức Nesbitt bằng 45 cách

Đã đăng: 20 cách chứng minh BĐT Nesbit: Phần cuối, Tuyển tập
45 cách chứng minh bất đẳng thức Nesbitt
Ngay sau khi bài viết 20 cách chứng minh BĐT Nesbitt được đăng tải, một bạn đọc đã gửi cho tuyensinhvnn.com tập tài liệu có nhiều cách giải hơn, được soạn thảo đẹp hơn. Trong đó trình bày 45 cách chứng minh bất đẳng thức Nesbitt quen thuộc. Mỗi cách đều có một vẻ đẹp riêng.
Download 45 cach chung minh bat dang thuc Nesbitt

Sunday, October 17, 2010

Bài tập Hình học sơ cấp

Bài tập Hình học sơ cấp - tập tài liệu được soạn thảo bởi Huỳnh Văn Thơ và được gửi đến tuyensinhvnn.com bởi Trịnh Tiến Dũng martinolusio@gmail.com, gồm các phần sau:
Bai tap hinh hoc so cap
Download ở đây: Download

Vì sao không có giải Nobel Toán học?

Alfred Bernhard Nobel (21/10/1833 – 10/12/1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, người có hơn 350 phát minh trong đó nổi bật nhất là thuốc nổ (dynamite) và một triệu phú người Thụy Điển. Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của ông.
Vì sao không có giải Nobel Toán học?
Giải thưởng Nobel là giải thưởng vô cùng danh giá. Trước khi mất đi, Nobel đã để lại 94% tài sản của mình (khoảng 235 triệu USD/250 triệu USD – con số đã được điều chỉnh theo lạm phát) để làm giải thưởng về các lĩnh vực : Vật lý, Hóa học, Y học, Văn học và Hòa bình. Được quản lý bởi quỹ Nobel, cho tới nay tài sản để lại của Nobel đã được sinh sôi nảy nở lên tới hơn 500 triệu USD. Mỗi người khi được trao giải Nobel sẽ được nhận một huy chương bằng vàng thật, bằng chứng nhận và số tiền trên 1 triệu USD. Nhận giải có thể là một cá nhân hoặc nhóm không quá 3 người.
Câu hỏi được đặt ra từ lâu nay là tại sao Nobel lại không trao giải cho các thành tựu nghiên cứu Toán học? Lời đồn thổi dễ thấy nhất ở khắp mọi nơi là do vợ/vợ sắp cưới/người yêu của ông đã bỏ ông đi theo một nhà toán học danh tiếng, do vậy Nobel cảm thấy bị xúc phạm và không trao giải thưởng cho môn Toán (trong khi lại trao giải cho Lý, Hóa).
Thực sự thì không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh được điều này. Trong cuộc đời của Alfred Nobel, có 3 người phụ nữ đặc biệt. Người đầu tiên là Alexandra, người đã từ chối lời cầu hôn của Nobel. Thư ký của Nobel, Bertha Kinsky là người phụ nữ thứ 2 nhưng cô này đã quyết định cưới người yêu cũ của mình. Sau đám cưới, Kinsky và Nobel vẫn giữ quan hệ rất tốt. Người thứ 3, người phụ nữ đã có quan hệ với Nobel tới 18 năm qua thư từ và chỉ là thư từ là bà Sophie Hess. Kết thúc cuộc đời, Nobel không hề kết hôn với bất cứ người phụ nữ nào. Cả 3 người phụ nữ này đều chẳng liên quan tới bất cứ một nhà toán học nào như lời đồn thổi.
Lý do mà Nobel không trao giải cho môn Toán có lẽ là vì ông chẳng quan tâm tới môn này, hay rõ hơn là vì ông chỉ trao giải cho những bộ môn/lĩnh vực mà ông quan tâm. Vật lý và Hóa học là hai bộ môn Nobel nghiên cứu rất nhiều, Văn học thì là sở thích của ông. Y học cũng là một ngành mà Nobel nhìn nhận sẽ giúp ích được cho thế giới sau này rất nhiều. Giải thưởng Nobel về Hòa bình là do bà Kinsky, một trong 3 người phụ nữ của Nobel đề xuất với ông bởi lúc đó Nobel được coi là người giúp tạo ra chiến tranh ở khắp nơi (do bằng sáng chế về thuốc nổ của ông) và giải thưởng về Hòa bình sẽ làm thay đổi nhận thức của mọi người về ông.
Trên thực tế, rất nhiều người nhìn nhận giải thưởng Fields (mà giáo sư Ngô Bảo Châu mới vinh dự nhận được gần đây) là giải thưởng thay thế cho giải Nobel Toán học. Tuy nhiên, quan niệm này không thật chính xác bởi giải Fields chỉ được trao 4 năm một lần (trong khi giải Nobel trao 1 năm một lần), số tiền thưởng của giải Fields chỉ là 15.000 USD (so với giải Nobel là 1 triệu USD) và giải Fields thường không trao cho một thành tựu nghiên cứu xuất sắc đơn lẻ mà trao cho cả quá trình nghiên cứu xuất sắc. Đương nhiên, giải Fields vẫn là một giải thưởng cực kỳ danh giá về Toán học nhưng nói một cách chính xác thì giải Abel do vua Nauy chủ trì với giải thưởng lên tới 1 triệu USD và người được giải được chọn bởi 5 nhà toán học có uy tín trên thế giới mới là giải thưởng tương đương với giải Nobel.
tuyensinhvnn.com (Theo Baomoi)

20 cách chứng minh bất đẳng thức Nesbitt (tuyển tập)

Tuyển tập 20 cách chứng minh bất dẳng thức Nesbitt
Bất đẳng thức Nesbitt
Loạt bài 20 cách chứng minh bất đẳng thức Nesbitt đã được chúng tôi đăng cách đây khá lâu (Xem Phần 1; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5; Phần 6Phần cuối). Một số bài trong đó các công thức Toán không hiển thi được. Vì vậy, tuyển tập 20 cách chứng minh bđt Nesbitt ra đời. (Một ai đó copy trên www.tuyensinhvnn.com rồi dán vào word, sau đó convert sang pdf).
Download 20 cach chung minh cho bat dang thuc Nesbitt

Saturday, October 16, 2010

7 hướng biến đổi cho 1 bài toán tích phân

7 hướng biến đổi cho 1 bài toán tích phân - Nguyễn Hữu Thanh, THPT Thuận Thành số I, Bắc Ninh.
Xem bài viết của thầy Nguyễn Hữu Thanh dưới đây. Download ở đây: DOWNLOAD

Mừng vì các nhà Toán học Việt Nam chạy sang Mỹ

Luật sư Đào Xuân Thân: Mừng vì các nhà Toán học Việt Nam chạy sang Mỹ gần hết

Tôi tin chắc có đến 99% những nhà toán học người Việt ở nước ngoài, đặc biệt ở Mỹ luôn hướng về Việt Nam với lòng tri ân và luôn mong chờ sẽ làm một điều gì đó. Các nhà lãnh đạo Việt Nam - những người có quyền quyết định chiến lược, sách lược thì bận quá nhiều việc, còn những cố vấn, chuyên gia cao cấp - những người lập dự thảo chiến lược, sách lược để trình duyệt lại không được "tiếng" mà "miếng" cũng chẳng được là bao. Vậy có gì không ổn chăng?

Là một luật sư nhưng tôi cũng rất yêu toán học, ngày tôi học lớp 10, tôi có may mắn được biết đến một điều kỳ diệu trong toán học đó là “số thoát y vũ” trong tuyển tập "30 năm toán học tuổi trẻ" của Nhà xuất bản Giáo dục:

Ta có 6 nhóm số tạo thành phép tính sau:

123789 + 561945 + 642864 = 242868 + 323787 + 761943 và bình phương từng con số đó phép tính vẫn đúng.

Tước bỏ các chữ số đầu ở 6 con số và phép tính vẫn không sai.

23789 + 61945 + 42864 = 42868 + 23787 + 61943.

Cứ thế tước bỏ dần cho đến chỉ còn một con số, phép tính vẫn giữ nguyên.

Chưa hết, ta thử dùng quy luật tước bỏ các chữ số ở cuối của 6 số, vẫn không có gì thay đổi.

Sau này, trở thành một luật sư, tuy hoạt động trong lĩnh vực không liên quan nhiều đến toán học, nhưng tôi vẫn luôn suy nghĩ về con số kỳ diệu đó. Với tôi, luôn tồn tại ít nhất một quy tắc góp phần tạo ra sự cân bằng trong vũ trụ, cho dù có sự thay đổi thêm bớt bởi một quy luật khác.

Tôi không lo các nhà toán học của Việt Nam chạy hết sang Mỹ. Họ đang tích lũy và phát triển tri thức vào dòng máu người Việt Nam. Tôi lại rất rất mừng vì điều đó. Nước Mỹ đã tạo ra “hố đen toán học” để thu hút nhân tài và Chính phủ Việt Nam - người thi hành và điều hành các chính sách quốc gia cần sớm tạo ra “hố đen” để các nhân tài ở các quốc gia khác hội tụ về Việt Nam, mà hạt giống ban đầu là các nhà toán học, khoa học Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới, để họ dễ dàng đưa tri thức đó về nước.

Với giới hạn chỉ có 1.000 từ tôi hy vọng có dịp chia sẻ cụ thể hơn ở diễn đàn khác.

Bạn đọc Phạm Lê (Hà Nội): Tôi thích nhất "cạnh tranh khốc liệt nhưng công bằng"

Mừng vì các nhà Toán học Việt Nam chạy sang Mỹ
Nhà Toán học gốc Việt Đào Hải Long
Chúng ta hay đặt vấn đề thu hút các tài năng người Việt về nước làm việc.

Điều đó tốt nhưng nếu họ về thì có cải thiện được chất lượng môi trường khoa học trong nước lên không?

Theo tôi chắc chắn là có nhưng không nhiều!

Theo bài báo trên, nhận định tôi thích nhất về nước Mỹ là "cạnh tranh khốc liệt nhưng công bằng".

Tôi nghĩ, ở Việt Nam đã triệt tiêu cạnh tranh bởi sự cào bằng, chúng ta đã phát huy hết được trí tuệ, năng lực hiện có trong nước chưa? Tại sao có hiện trượng bằng cấp mọc ra như nấm từ đại học cho đến tiến sĩ (cho dù có "thực" học chứ chưa nói đến bằng cấp mua), sau khi có những tấm bằng đó thì người sở hữu có làm tăng thêm giá trị cho xã hội hay chỉ củng cố địa vị?

Ở Việt Nam làm sao phân biệt được người có thực tài? Làm sao người có tài có thể phát huy hết khả năng của họ?

Tôi nghĩ, chỉ cần giải quyết được các câu hỏi trên cho thấu tình thì chưa cần các tài năng người Việt ở nước ngoài về nền khoa học của chúng ta cũng sẽ có bước tiến quan trọng và chắc chắn đó là môi trường trũng để tài năng chảy về.

Bạn đọc Thành Long (Hà Nội): Lương có phải vấn đề thiết yếu?

Liệu đồng lương, như trong câu kết của bài viết, có phải là một vấn đề thiết yếu không? Tôi nghĩ không hẳn vậy... Những người tài đa phần họ đều là những người năng động, khả năng khám phá tìm tòi, học hỏi rất cao...

Nếu như họ có ở lại Việt Nam và đc trả một mức lương cao hơn ở nước ngoài (nơi mà từ môi trường, không gian, cơ sở vật chất làm việc vô cùng tốt) không nhỉ...

Trong khi đó nếu ở trong nước thì gần như mọi điều kiện này đều rất mờ nhạt vì vậy sẽ không có khả năng phát huy, phát triển tài năng.... Vì vậy ai đi thì họ vẫn sẽ đi không phải chỉ riêng vì đồng lương đâu...

Còn nếu "có ai trở về" thì đó sẽ là một điều vô cùng tốt đẹp cho đất nước chúng ta.... Nên đừng cố gắng níu kéo họ ở lại... hãy để họ ra đi để phát triển, phát huy bản thân và hãy cùng hi vọng họ sẽ trở về để phát triển đất nước...
tuyensinhvnn.com (Theo VietNamNet)

Gánh nặng sổ sách của giáo viên

Dành cả ngày ở trường, buổi tối về nhà cô N.T.M. - giáo viên (GV) Trường tiểu học Phan Tây Hồ (Q.Gò Vấp, TP.HCM) - lại tất tả thu vén việc gia đình thật nhanh rồi lên xe đi một vòng quanh khu phố để điều tra trình độ văn hóa các hộ dân sinh sống trên địa bàn.
Gánh nặng sổ sách của giáo viên
Hầu hết giáo viên phải tranh thủ giờ nghỉ để chấm bài kiểm tra
Ngoài thời gian thực dạy, GV hiện nay phải ôm đồm quá nhiều công việc cả trong lẫn ngoài chuyên môn, khiến quỹ thời gian của họ ngày càng trở nên eo hẹp.
Điều tra văn hóa vào buổi tối
“TP đang mùa mưa nên có hôm chỉ đi được 1-2 hộ là hết giờ. Có hộ đồng ý tiếp chuyện, có hộ cau có. Công việc tôi được phân công là điều tra nhân khẩu, trình độ học vấn. Cụ thể, đó là hỏi các thông tin về hộ khẩu, KT3, năm sinh, trình độ văn hóa, thu bản photo chứng chỉ văn bằng của các nhân khẩu, nếu nghỉ học thì tìm hiểu lý do... của gần 100 hộ dân theo địa chỉ cho sẵn và điền đầy đủ thông tin vào phiếu điều tra để nộp lại đúng thời hạn. Đã hai tuần nay, buổi tối tôi không được ở nhà chăm con mà phải đi gõ cửa từng nhà dân và thức khuya hơn để soạn giáo án. Hôm sau lên lớp thật sự rất mệt mỏi” - cô M. nói.
Không riêng cô M., nhiều GV khác trong trường và GV một số trường tiểu học như Võ Thị Sáu, Phan Chu Trinh... ở Q.Gò Vấp cũng phải làm công việc này. Cô T., GV Trường tiểu học Phan Chu Trinh, bức xúc: “Đồng ý GV cũng có trách nhiệm trong việc điều tra văn hóa nhưng giao một danh sách cả 60 hộ dân rồi kêu điều tra trong vòng mười ngày, GV không thể kham nổi vì còn phải chuẩn bị việc giảng dạy, lo cho gia đình nữa. Tôi đi phát tờ mẫu điều tra suốt một tuần nhưng mới chỉ làm việc được với 15 hộ”. Tại Trường tiểu học Võ Thị Sáu, vì không thể sắp xếp được thời gian, nhiều GV đã góp tiền nhờ các tổ dân phố hay hội phụ nữ đi điều tra giùm”.
Giải thích việc này, hiệu trưởng một trường tiểu học ở Gò Vấp cho biết: “Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương là một trong những nhiệm vụ của GV, nhưng do công tác giảng dạy chiếm nhiều thời gian, nhiều quận đã linh động nhờ các tổ dân phố làm giúp hoặc các trường trích một phần kinh phí để bồi dưỡng cho GV làm ngoài giờ. Tuy nhiên trường chúng tôi không có kinh phí nên không làm được như vậy”.
Gánh nặng sổ sách
Chẳng những thế, tìm hiểu thêm các công việc sau giờ lên lớp của GV, chúng tôi nhận thấy họ còn “vướng bận” số lượng đầu việc hành chính nhiều đến không ngờ, nhất là khâu làm sổ sách. Một GV tiểu học cho chúng tôi xem bốn loại sổ sách chính: sổ theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá học sinh, sổ liên lạc, học bạ tiểu học và sổ chủ nhiệm. Trong đó, riêng sổ chủ nhiệm đã dày 60 trang.
GV phải điền tất cả thông tin liên quan đến học sinh như: nơi học tập ở nhà, ai là người hướng dẫn học tập ở nhà, có học thêm không. Mục kế hoạch chủ nhiệm, GV phải điền vào các ô: thuận lợi, khó khăn, kế hoạch giáo dục các mảng đạo đức lối sống, mảng học tập, các mặt giáo dục khác và giáo dục ngoại khóa - truyền thống. Mỗi mảng này GV lại phải ghi rõ mục tiêu, nội dung, những biện pháp chủ yếu và kết quả mong đợi. Ngoài ra, GV phải lên kế hoạch chủ nhiệm chín tháng.
Riêng GV tiểu học hằng ngày phải chép cả thời khóa biểu, giờ vào học, các hoạt động học tập, nhận xét vào sổ liên lạc để định kỳ trao đổi với phụ huynh. Cô Châu - giáo viên ở Q.12, TP.HCM - kể: “Cứ đầu năm chúng tôi gần như bò ra để chép tên học sinh vào sổ. Cuốn sổ điểm có 25 trang thì phải chép danh sách 45 học sinh 25 lần. Cả chục năm nay những phần sổ sách này không những không giảm mà còn dày thêm”.
“Để có một tiết dạy tốt, đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian chuẩn bị. Nhưng hiện nay, việc GV phải chạy sô dạy thêm để tăng thu nhập và phải thực hiện quá nhiều công việc ngoài giảng dạy ở trường khiến thời gian đầu tư cho chuyên môn không còn nhiều, dẫn đến chất lượng giáo dục thấp” - thầy Trần Đức Bé, giáo viên Trường THPT Nguyễn Hiền, Q.11, tâm tư.
Chỉ dạy bằng 1/3 thời gian thực tế
Một GV THCS ở Q.4, TP.HCM cho chúng tôi xem “kho” sổ sách của mình: sổ gọi tên ghi điểm, sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc, sổ kế hoạch ngoại khóa, sổ họp tổ, họp chuyên môn, sổ báo cáo, chuyên đề... Tính sơ đã gần mười loại sổ sách phải cập nhật đầy đủ để kiểm tra vào cuối tháng. Một giáo viên THPT cho biết thời gian thực dạy của giáo viên chỉ bằng 1/3 so với thời gian thực tế.
Bởi GV còn phải làm công tác chuẩn bị, lên kế hoạch giảng dạy, kế hoạch ngoại khóa, làm sổ sách, tìm tư liệu, họp tổ, họp chuyên môn, báo cáo thu hoạch, ra đề, chấm bài, cập nhật điểm, dự chuyên đề cụm - trường, dự giờ (sau đó phải dạy bù). Chưa kể đầu năm học, nhiều trường còn giao cho GV chủ nhiệm “nhiệm vụ” làm thủ quỹ: thu tiền hộ cho trường hoặc cho quỹ phụ huynh.
Theo TuoiTre

Thursday, October 14, 2010

Người Việt làm Toán "chạy" gần hết sang Mỹ

Trong khi đội ngũ làm toán của nước ta đang thiếu những người giỏi thì hơn một nửa những người làm toán giỏi đang ở nước ngoài, trong đó phần lớn là ở Mỹ. Nước Mỹ, tất nhiên, không chỉ thu hút nhân tài người Việt mà còn thu hút nhân tài ở khắp thế giới. Những chia sẻ dưới đây của các nhà khoa học và cựu du học sinh ở Mỹ sẽ làm sáng tỏ phần nào nguyên nhân.
Những "tên tuổi" về toán học tập trung ở Mỹ
Người Việt làm Toán chạy gần hết sang Mỹ
GS Lê Tự Quốc Thắng.
Nước Mỹ vốn nổi tiếng là "vùng trũng" thu hút nhân tài. Ngành khoa học cơ bản như Toán học hiển nhiên được chú trọng.
GS Ngô Bảo Châu, mặc dù đã có thời gian học và làm việc 15 năm ở Pháp, vẫn chọn Mỹ là nơi dừng chân.
Những người Việt ở nước ngoài làm toán chuyên nghiệp ước tính trên 100 người, trong đó phần lớn tập trung ở Mỹ.
Những người Việt làm toán có tiếng ở Mỹ có thể kể đến: GS Vũ Hà Văn (ĐH Rutgers), GS Dương Hồng Phong (ĐH Columbia), GS Đào Hải Long (ĐH Kansas), Lê Hải An (ĐH Utah), GS Lê Tự Quốc Thắng (Viện công nghệ Georgia, Atlanta), GS Phạm Hữu Tiệp (ĐH Florida), Ngô Thanh Nhàn (ĐH New York)...
Ông Lê Tuấn Hoa, Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam cho biết trong số khoảng gần 30 người Việt đang làm việc về ngành toán ở nước ngoài có trao đổi thường xuyên và thỉnh thoảng về nước làm việc thì có khoảng một nửa đang làm việc tại Mỹ.
"Những người làm toán trẻ và giỏi, độ tuổi trên dưới 35 phải đến hơn một nửa đang làm việc ở nước ngoài, trong đó chủ yếu ở Mỹ", ông cho biết thêm.
Nước đứng đầu về số lượng giải Fields, giải thưởng cao quý nhất về toán học cũng chính là Mỹ (13 giải), tiếp đến là Pháp (11 giải), Nga (9 giải), Anh (6 giải).
Tại ĐH Toán học thế giới vừa qua tại Ấn Độ, có 19 báo cáo mời toàn thể thì Mỹ chiếm tới 11 báo cáo. Không thể không nhắc tới, GS Ngô Bảo Châu khi thêm vào một huy chương Fields cho bảng thành tích giải Fields của nước này.
Vì sao nước Mỹ là đích đến cho các nhà toán học?
Người Việt làm Toán chạy gần hết sang Mỹ
GS Đào Hải Long.
Một GS toán người Việt đang làm việc tại Mỹ nhận định: "Một đất nước muốn phát triển kinh tế thì trước hết phải có nền khoa học tiên tiến - đây chính là tư tưởng mà Mỹ đã áp dụng từ rất lâu.
Làm khoa học, ai cũng muốn ở trong một môi trường có nhiều người quan tâm tới thứ mình làm, có nhiều người để thảo luận và cộng tác. Mỹ chính là một môi trường như vậy, có rất nhiều nhà khoa học trong mỗi chuyên ngành hẹp. Đây là kết quả của một quá trình đầu tư lâu dài".
GS. Ngô Bảo Châu trong một bài phỏng vấn cũng nói lý do chuyển đến ĐH Chicago là vì cần những đồng nghiệp có thể hiểu những gì anh đang làm.
GS Hà Huy Tài, ĐH Tulane (Mỹ) cho biết thêm: "Không phải các nhà khoa học không muốn sang châu Âu, mà sang châu Âu khó hơn qua Mỹ, mà công việc thì chưa chắc đã tốt bằng. Mỹ có rất nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Hơn nữa, khi xét hồ sơ xin việc trong khoa học, người ta sẽ không quan tâm anh là người Mỹ hay người nước ngoài (trừ một số nơi đặc biệt), thành ra, cơ hội là cao hơn. Ở châu Âu, số lượng các trường đại học ít hơn nhiều, và thường vẫn có sự ưu tiên cho người bản xứ".
Người Việt làm Toán ở nước ngoài
Theo thống kê sơ bộ, hiện có gần 100 người Việt làm toán (hiểu theo nghĩa có công việc tương đối ổn định, và có làm việc nghiên cứu về toán, kể cả lý thuyết lẫn ứng dụng) đang định cư ở nước ngoài. So với tổng số các nhà toán học trên thế giới thì con số này chỉ là "muối bỏ biển", nhưng so với VN thì đây là con số đáng kể, và sẽ là một động lực quan trọng cho việc phát triển toán học của VN
Thêm vào đó "Ở Mỹ, lương trả cao hơn ở các nước khác, hơn nữa lương trả theo khả năng. Hai giáo sư cùng một chuyên ngành, vào trường cùng thời gian nhưng lương có thể khác hẳn nhau. Nếu bạn thật sự giỏi, người ta sẵn sàng trả lương rất cao để mời bạn về. Ở nhiều nước châu Âu (trong đó có Việt Nam), nếu hai người có cùng học hàm, học vị, cùng thâm niên công tác và làm việc cùng cơ quan thì lương phần nhiều là tương đương nhau", GS Hà Huy Tài nói.
Một du học sinh tại Mỹ, đã từng làm việc tại Mỹ và Việt Nam, Nguyễn Nguyệt, lý giải vì sao Mỹ thu hút được nhân tài khắp thế giới:
"Từ thế chiến thứ II đến nay, Mỹ luôn ra sức giành giật nguồn chất xám từ các nước. Nước Mỹ chiếm tới 2/3 số giải Nobel của thế giới, trong đó, có sự đóng góp của rất nhiều nhà khoa học nhập cư. Và chính nguồn chất xám thu hút được này đã giúp Mỹ tích lũy được một nguồn của cải khổng lồ với GDP lên tới gần 15.000 tỉ USD trong năm ngoái là năm đang chìm trong suy thoái.
Có thể nói, họ gặt hái được nhiều thành công và xây dựng được một nền kinh tế vượt bậc là do họ biết định giá nhân tài, và mua chất xám. Lí do Mỹ thu hút được nguồn nhân tài lớn do thu nhập cao, môi trường năng động, cơ sở vật chất đầy đủ, đãi ngộ rất tốt đối với những cá nhân xuất sắc.
Cơ chế thị trường của Mỹ đã được xây dựng và củng cố từ hàng trăm năm nay. Môi trường pháp lý cũng rất phát triển. Do đó, môi trường làm việc vô cùng chuyên nghiệp, với sự liên kết chặt chẽ, đề cao sự sang tạo và cái mới, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Sự liên lạc – trao đổi thông tin được đề cao, cạnh tranh khốc liệt nhưng công bằng.
Trong văn hóa Mỹ, giá trị của một con người nằm ở việc anh ta làm được gì và anh ta làm việc bao lâu nên cuộc sống xoay quanh công việc, vô cùng căng thẳng".
Thu hút người tài trở về từ Mỹ
Chỉ thu hút được người làm toán giỏi ở Mỹ về Việt Nam cũng là một thành công lớn. Nếu như môi trường làm việc ở Mỹ được coi là lý tưởng thì môi trường sống không hẳn như vậy. Người Việt dù xa quê nhiều năm vẫn thèm một không khí ấm áp, chân tình như ở quê nhà. Đó là chưa kể, cái kết nối khiến họ không thể đi mãi không về là gia đình, họ hàng, bạn bè thân thuộc đang còn ở Việt Nam.
GS Hà Huy Tài chia sẻ tâm sự rất thật: "Cuộc sống ở Mỹ rất tốt cho công việc, nhưng lại khá buồn tẻ và luôn phải chịu áp lực lớn vì tính cạnh tranh cao. Ngoài công việc ra thì tôi không thích cuộc sống bên Mỹ là mấy."
Tất nhiên, ai cũng hiểu, nhà khoa học Việt, bên cạnh môi trường làm việc tốt còn là sự mưu sinh mà phải tha hương. Nếu như đồng lương trong nước đảm bảo cuộc sống để yên tâm nghiên cứu thì chắc chắn, đã có rất nhiều nhà khoa học trở về. Nếu như chỉ cần cải thiện được thu nhập thì Việt Nam sẽ trở thành "vùng trũng tự nhiên" thu hút người con đất Việt.
  • tuyensinhvnn.com (Theo VNN)

Tuyển sinh Đại học là việc của Trường, không phải của Bộ

Phương thức tuyển sinh hiện nay đang có gì bất ổn và có còn phù hợp với thực tế? Cần thay đổi như thế nào? TS Lê Trường Tùng - hiệu trưởng Trường ĐH FPT, một trường đang áp dụng phương thức tuyển sinh riêng, đã có cuộc trao đổi với Tuổi Trẻ.
Tuyển sinh Đại học là việc của Trường không phải của Bộ
Cán bộ phòng đào tạo Trường ĐH Sài Gòn giải đáp thắc mắc cho thí sinh trước ngày thi. Rất nhiều quy định bắt buộc thí sinh phải tuân thủ khi tham dự kỳ thi tuyển sinh
Bộ đang tuyển sinh giúp các trường (!)
Quan điểm của tôi là tuyển sinh - tuyển chọn người vào học - là việc của trường. Mỗi trường có một chiến lược phát triển riêng, mục tiêu đào tạo cụ thể, các điều kiện mọi mặt khác nhau... nên cần có phương thức tuyển sinh riêng.
Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang tuyển sinh giúp các trường. Tất cả các trường đều tuyển như nhau dựa trên cùng một lý thuyết học phổ thông tốt thì học ĐH tốt, chưa kể đến tính may rủi do sự lựa chọn của thí sinh...
Cách tuyển sinh của trường chúng tôi vẫn phù hợp với quy chế tuyển sinh nhưng tạo cho trường một sự chủ động nhất định, chọn được đầu vào phù hợp. Ít nhất chúng tôi có quyền lắc đầu đối với những người mình nghĩ rằng không đủ tố chất theo học.
- Cách thi tuyển sinh hiện nay của Bộ GD-ĐT được các trường đồng loạt áp dụng dựa trên giả thuyết: học phổ thông tốt sẽ học ĐH tốt. Cách thi tuyển là kiểm tra những kiến thức đã học. Như vậy, nhược điểm lớn nhất là không đáp ứng được yêu cầu chọn được những thí sinh phù hợp nhất với việc học ĐH, học ở những trường ĐH khác nhau.
Hình thức tuyển sinh hiện nay là chỉ nhằm đóng cái dấu đủ điều kiện học ĐH hay không bằng điểm sàn. Phân thí sinh ra làm hai loại, gây cảm giác không đạt điểm sàn giống như “công dân hạng hai”. Quan niệm xã hội hiện nay cho rằng vào trung cấp, CĐ là do không vào nổi ĐH. Cách thi cử hiện nay đang "tiếp tay” cho tâm lý và cách nghĩ đó của xã hội.
Đến lúc nào đó học ĐH là quyền, đủ tiền, thích học là được học, nếu vì điều kiện gì đó hoặc sở thích thì có thể học bằng những con đường khác nhau. Cách tuyển sinh này cũng quá nhấn mạnh đầu vào. Cách thức tổ chức tuyển sinh là do bộ không tin trường, không tin địa phương có thể làm tốt. Không thể phát triển, không thể có đổi mới và đột phá nếu như dựa trên sự không tin tưởng lẫn nhau.
* Nhưng các nhà quản lý giáo dục luôn lý giải sở dĩ phải áp dụng phương thức tuyển sinh như hiện nay vì giáo dục ĐH ở VN chưa giải quyết được mối quan hệ cung - cầu. Khi nhu cầu học ĐH luôn vượt quá khả năng đáp ứng thì phải tuyển chọn gay gắt, chặt chẽ?
- Cả cơ quan quản lý nhà nước lẫn tâm lý xã hội đang cho rằng quan hệ cung - cầu là một nguyên nhân cơ bản để áp dụng hình thức tuyển sinh hiện nay nhưng thực tế không phải vậy. Cung - cầu trong giáo dục ĐH hiện nay đã có những thay đổi. Theo tôi, nó không còn ở tình trạng căng thẳng, khi cầu vượt quá cung nhiều như trước đây, buộc chúng ta phải lựa chọn những hình thức tuyển sinh khắt khe và căng thẳng. Như kỳ thi tuyển sinh năm nay, báo chí đã phản ánh nhiều trường không tuyển được.
Thực tế mỗi năm chúng ta có khoảng 1 triệu HS hoàn thành chương trình THPT. Trong đó khoảng 850.000 học sinh tốt nghiệp. Khoảng 85-90% trong số đó thi ĐH, cộng với số thí sinh tự do dồn lại từ năm trước, tôi ước chừng có khoảng 900.000 thí sinh thực tế. Đó chính là cầu.
Trong khi tổng chỉ tiêu tuyển mới của ĐH, CĐ chính quy được công bố là 560.000, chưa tính những số chỉ tiêu được bổ sung cho các trường, ngành mới. Bên cạnh đó còn các loại chỉ tiêu như đào tạo theo nhu cầu xã hội, liên thông, tại chức...
Chưa kể cả nước có 135 trường đào tạo hệ CĐ nghề với trung bình 1.500 chỉ tiêu/trường. Như vậy, nhìn vào nguồn đầu vào ĐH và thực tế xét tuyển NV2, NV3 khó khăn của các trường ĐH, CĐ hiện nay sẽ thấy chúng ta đã ở tình trạng mấp mé cung vượt cầu chứ không phải ngược lại. Đã đến lúc không phải các trường ĐH muốn làm gì cũng được, người học đã có quyền và nhiều cơ hội lựa chọn. Nếu không hấp dẫn, người học sẽ không chọn trường đó.
* Vậy theo ông, phương thức tuyển sinh ĐH cần thay đổi theo hướng như thế nào?
- Cải tiến tuyển sinh trước hết là phải xem lại quan hệ cung - cầu đối với giáo dục ĐH hiện nay. Phải nhìn nhận lại mối quan hệ này, từ đó có cách nhìn khác, cách tiếp cận khác để giảm căng thẳng, áp lực không cần có đối với việc tuyển chọn đầu vào ĐH. Có rất nhiều giải pháp đưa ra hiện nay mang tính tình thế. Ví dụ như gần đây tôi thấy lãnh đạo Bộ GD-ĐT nói việc chỉ tổ chức một đợt thi ĐH thay vì hai đợt... Những giải pháp này chỉ là cải tiến nho nhỏ, không giải quyết được tận gốc của vấn đề, không tạo ra sự thay đổi.
Tuyển sinh ĐH, CĐ đang cần một quá trình chuyển đổi phương thức mà cuối cùng là giao hết cho các trường, là việc của các trường ĐH, CĐ. Hiện nay do bối cảnh xã hội có thể chưa làm được ngay nhưng phải bắt đầu làm sớm, dần dần chuyển về để trường thực hiện.
* Cơ quan quản lý giáo dục lo ngại không tuyển sinh có thể dẫn đến tình trạng các trường tuyển sinh với chất lượng thấp?
- Tôi luôn cho rằng việc tuyển sinh là của các trường. Các trường có thể chịu trách nhiệm trước xã hội về cả một tổng thể lớn là quá trình đào tạo, dạy - học, cấp bằng tốt nghiệp... Vậy tại sao lại không thể chịu trách nhiệm về việc tuyển sinh. Tuyển sinh là khâu dễ nhất trong cả quy trình đào tạo ĐH. Phải tập trung cho khâu tuyển sinh như hiện nay mất sức, mất quá nhiều thời gian. Nếu cầu thật sự vượt cung đáng kể thì cần có bộ lọc. Nhưng khi cung và cầu đã xấp xỉ thì nên coi việc ràng buộc bằng xác định chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm theo những tiêu chí nhất định là một sự tính toán, hạn chế cho các trường rồi. Quan trọng nhất vẫn là kiểm soát, sàng lọc trong quá trình đào tạo.
Theo TTO

Wednesday, October 13, 2010

Học sinh giỏi chê các kỳ thi quốc gia và quốc tế

Học sinh giỏi chê các kỳ thi quốc gia và quốc tế
Đội HSG thi Olympic Toán quốc tế năm 2010
Việt Nam đang mất dần vị thế của mình trong các kỳ thi Olympic quốc tế, trong khi đó, học sinh (HS) chuyên cũng không còn thiết tha với các kỳ thi HS giỏi quốc gia.
 
Tụt hạng thê thảm
Theo nhận định của Bộ GD-ĐT, kết quả dự thi của VN trong 5 năm gần đây có phần chững lại hoặc đi xuống. Trong khi đó, kết quả của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á lại tiến bộ rõ rệt. Năm 2010, VN chỉ đoạt 2 huy chương vàng ở 5 môn, thua xa các nước như Indonesia và Singapore mỗi nước 6 huy chương vàng, Thái Lan 12 huy chương vàng.
Ngay cả môn Toán - vốn là thế mạnh của đội tuyển VN tại các kỳ thi Olympic quốc tế, cũng không nằm ngoài tình trạng trên. GS-TS Hà Huy Khoái, Viện Toán học, chỉ ra rằng: kể từ khi tham gia Olympic Toán quốc tế, đội tuyển VN luôn được xem là một trong những đội mạnh và thường đứng trong top 10 của bảng xếp hạng thành tích toàn đoàn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tương quan giữa thành tích của đội tuyển nước ta với một số nước khác đã có nhiều thay đổi. Nếu như năm 2000 đoàn HS VN đứng thứ 5 thì đến năm 2010 đã tụt xuống thứ 10. Trong khi đó, Thái Lan từ hạng thứ 29 của năm 2000 đã vươn lên hạng 5 trong năm nay, Thổ Nhĩ Kỳ từ hạng 18 lên 8...
Như vậy, ngoại trừ thành tích cao của năm 2007, khi Olympic Toán quốc tế lần thứ 47 được tổ chức tại VN, kể từ năm 2005 đội tuyển của chúng ta đã rơi vào tốp 11-15. “Nếu không được cải thiện, có lẽ trong tương lai gần, chúng ta sẽ ở trong tốp 16-20, đội tuyển VN sẽ ra khỏi tốp những đội tuyển mạnh về toán học quốc tế” - GS Khoái nhận định.
PGS-TS Nguyễn Thế Khôi (trường ĐH Sư phạm Hà Nội), người thường giữ vai trò trưởng đoàn HS VN tham dự Olympic Vật lý quốc tế cũng nêu thực tế: cách đây khoảng 5 năm, thành tích của đoàn HS VN vào loại cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, dần dần chúng ta bị các nước như Indonesia, Thái Lan và Singapore đuổi kịp và vượt qua.
Cũng theo Bộ GD-ĐT, các đội tuyển khác như Sinh học mới có một HS đoạt huy chương vàng quốc tế năm 2000. Đội tuyển Tin học từng gây tiếng vang toàn cầu (năm 1999, có 3/4 HS đoạt huy chương vàng, đạt vị trí số 1 nếu tính điểm đồng đội), nhưng trong 7 năm gần đây lại không có huy chương vàng nào, năm 2010 chỉ có 1 HS đoạt huy chương đồng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó, chủ yếu là do không có được nguồn HS giỏi dồi dào để tuyển chọn vào tuyển quốc gia.

Nản lòng vì chính sách đãi ngộ


Nếu không được cải thiện, có lẽ trong tương lai gần, chúng ta sẽ ở trong tốp 16-20, đội tuyển VN sẽ ra khỏi tốp những đội tuyển mạnh về toán học quốc tế

GS-TS Hà Huy Khoái
Nhiều ý kiến cho rằng, một số thay đổi về chính sách đối với HS đoạt giải trong kỳ thi HS giỏi quốc gia đã làm giảm sự nhiệt tình của số đông HS giỏi. Điển hình là việc bỏ chế độ tuyển thẳng HS giỏi quốc gia vào ĐH từ năm 2007 đến nay. Theo GS Khoái, phụ huynh cũng đã hướng con em mình đến những mục tiêu dễ dàng hơn như học để đạt điểm cao trong các kỳ thi ĐH, để tìm cơ hội du học hơn là cố gắng đi theo con đường thi HS giỏi đầy khó khăn. Giáo viên trường chuyên là những người hiểu rõ hơn ai hết khó khăn của việc động viên HS giỏi tham gia các kỳ thi trong những năm gần đây. TS Nguyễn Đức Hoàng, Hiệu trưởng trường THPT chuyên ĐH Sư phạm Hà Nội nói: “Nhiều phụ huynh chọn trường chuyên cho con em mình chỉ vì môi trường học tập, sau đó tập trung tối đa cho tiếng Anh để du học chứ không hào hứng tham gia thi HS giỏi quốc gia như những năm trước kia. Điều này là do quyền lợi của HS đoạt giải không tương xứng với công sức mà các em phấn đấu để đạt được”.
TS Nguyễn Thanh Hùng, Phó hiệu trưởng trường Phổ thông Năng khiếu - ĐH Quốc gia TP.HCM, cũng nói: “Chính vì HS không mặn mà với các cuộc thi HS giỏi nên thầy cô các trường chuyên cũng mất dần tâm huyết giảng dạy các lớp chuyên, các đội tuyển”. TS Hùng cho biết một thực tế có HS đoạt huy chương bạc Tin học quốc tế khi đang học lớp 11, nhưng đến lớp 12 thì bỏ không thi để tập trung học tiếng Anh chuẩn bị đi du học.
Trước thực trạng này, GS Khoái tâm tư: “Cũng giống như thể thao, không thể có thành tích của thể thao đỉnh cao nếu không có phong trào thể thao rộng khắp. Vì thế, việc giảm sút nhiệt tình của HS đối với các kỳ thi HS giỏi quốc gia tất yếu dẫn đến sự giảm sút của chất lượng đội tuyển quốc tế”.
Chính từ nguyên nhân này, hầu hết các ý kiến phát biểu tại hội thảo về vấn đề thi HS giỏi quốc gia và tuyển chọn HS đi thi quốc tế (kết thúc hôm qua tại Hà Nội) đều kiến nghị Bộ GD-ĐT nên sửa đổi quy chế thi HS giỏi và khôi phục lại chế độ tuyển thẳng đối với HS đoạt giải quốc gia như trước kia.
tuyensinhvnn.com (Theo Thanh Niên)

Một số kinh nghiệm về cách tính tích phân - Nguyễn Hữu Thanh

tuyensinhvnn.com xin giới thiệu 2 bài viết nhỏ của thầy Nguyễn Hữu Thanh (THPT Thuận Thành I - Bắc Ninh) về chuyên đề tích phân.
1. THÊM MỘT CÁC TIẾP CẬN NỮA ĐỂ TÍNH TÍCH PHÂN (đặt ẩn phụ không làm thay đổi cận): Download
2. TRAO ĐỔI VỀ CÁCH TÍNH ĐỐI VỚI MỘT LỚP TÍCH PHÂN ĐẶC BIỆT (trao đổi thêm về bài viết của Trần Xuân Đường trên tạp chí Toán học Tuổi trẻ tháng 5/2010): Download

Monday, October 11, 2010

Viện Toán học Việt Nam tròn 40 tuổi

Ngày 12/10, Viện Toán học kỷ niệm 40 năm ngày thành lập (1970-2010). Từ 15 năm nay, được Viện Hàn lâm Thế giới thứ ba công nhận là một trong những "Trung tâm xuất sắc" (Institute of excellence) ở các nước đang phát triển.
Viện Toán học Việt Nam tròn 40 tuổi
Viện Toán học được khởi đầu với sự đóng góp quan trọng của nhà Toán học Lê Văn Thiêm. Ảnh: Tú Uyên
 Viện trưởng  từng về quê chăn bò và kỷ lục xây trụ sở mới
"Quyết định thành lập Viện Toán học là cực kỳ dũng cảm. Năm 1970, chiến tranh ở Việt Nam diễn ra rất ác liệt, đang rất cần nhân lực tài giỏi phục vụ chiến tranh, thế nhưng những người lãnh đạo bấy giờ dám để những người giỏi vào ngành toán trong thời điểm có nhiều việc phải làm" - GS. Hà Huy Khoái, nguyên viện trưởng, người gắn bó cả cuộc đời với viện, nhớ lại.
"Nếu đầu óc những người bấy giờ đòi hỏi người làm nghiên cứu toán phải "ra ngô, ra khoai" ngay thì rất khó. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc ấy chính là sự đầu tư rất lớn cho toán học Việt Nam".
Viện trưởng lâu đời nhất, GS Hoàng Tụy thì vẫn chưa quên tiền thân của viện là một phòng nghiên cứu toán học, với một nhóm 5, 6 sinh viên giỏi được đưa đi đào tạo ở  Ủy ban khoa học. Sau này, phòng toán học tăng lên hơn chục người. 
"Tôi nghĩ, trên thế giới chưa có viện toán nào hoạt động khó khăn như viện Toán thời ấy. Anh Lê Văn Thiêm, Viện trưởng đầu tiên, thần tượng của chúng tôi thời trẻ, là nhà toán học đầu tiên của chúng ta, đã có lúc phải về quê chăn bò, do có những chính sách đối xử với khoa học không được đúng đắn, khi có quan niệm, khoa học phải đi vào thực tế. Tuy vậy, nhìn chung con người lúc đó rất trong sáng, người như anh Thiêm không lấy chuyện đó làm buồn, vẫn tin tưởng rồi đất nước sẽ phát triển".  
40 năm thành lập viện Toán học Việt Nam
GS Hoàng Tụy. Cuốn chuyên khảo gồm phần lớn những thành tựu nghiên cứu của GS. Hoàng Tụy và học trò của ông mang tên "Global Optimization - Deterministic Approches" (Tối ưu toàn cục - tiếp cận tất định) được Springer (nhà xuất bản khoa học lớn nhất thế giới) in lại ba lần từ năm 1990 đến năm 1996, được coi là kinh điển trong lĩnh vực Tối ưu toàn cục. Có thể nói, Hà Nội thời GS Tụy là một trung tâm của toán tối ưu toàn cục.
Tập thể Viện Toán thời GS Tụy trở thành Viện trưởng (1980 - 1990) có khoảng 30 người, làm việc trong phòng làm việc có vài chục thước, ở 39 Trần Hưng Đạo, "sau chuyển đến một cái nhà tranh rách nát ở 208D Đội Cấn". "Chúng tôi vẫn thường đùa rằng ngồi làm việc nhưng có thể ngắm mây trời bất kỳ lúc nào". 
Mãi tới năm 1981, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm, thấy điều kiện làm việc thảm hại nên về bàn với Bộ trưởng Bộ Xây dựng thời ấy là ông Đồng Sĩ Nguyên xây cơ sở mới cho Viện Tính toán và điều khiển, trong đó có Viện Toán học.  Ông Đồng Sĩ Nguyên sau này cho biết chưa bao giờ thấy Thủ tướng giao một công việc cụ thể như vậy nên ông rất tích cực làm, chỉ trong một năm, một thời gian rất kỷ lục, Viện toán đã có cơ sở làm việc mới, chính là ở trên khu đất của Viện Toán học ngày nay. 
Nhìn lại nền toán học Việt Nam trong 40 năm, theo đánh giá của thế hệ sau, người được coi là nổi bật nhất, đại diện cho nền toán học là GS. Hoàng Tụy. GS. Hoàng Tụy là tác giả của gần 150 công trình khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín về nhiều lĩnh vực.
Cho tới nay, có ba nhà toán học được viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba công nhận là Viện sĩ: GS Hà Huy Khoái, GS Ngô Việt Trung và GS Lê Dũng Tráng (lúc đó vẫn còn làm việc ở Việt Nam). Gần đây nhất, viện này đã công nhận nhà toán học Phùng Hồ Hải (thuộc Viện Toán học) là thành viên trẻ của mình. Yêu cầu được công nhận là tuổi dưới 40, có thành tích xuất sắc. Thông thường, chỉ có khoảng 8 người ở 4 vùng được công nhận điều này.
GS. Hoàng Tụy cho biết: Sau 20 năm kể từ ngày thành lập, Viện Toán học đã trở thành một viện nghiên cứu tương đối đàng hoàng, là một trong những trung tâm toán học xuất sắc trong vùng Đông Nam Á thời bấy giờ.
Từ sau năm 1975 đến hết 1990, kinh tế bị kiệt quệ, khoa học nói chung bị trì trệ thì viện lại nổi lên. Tuy nhiên, 15 năm trước đây, có những lúc đã rơi vào khủng hoảng vì thiếu đội ngũ kế cận. 
 Công trình khoa học quốc tế chiếm 57%
Viện Toán học Việt Nam tròn 40 tuổi
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Viện Toán học năm 1981
GS Hà Huy Khoái cho biết, sở dĩ thời kỳ "khủng hoảng của toán học" sau đổi mới, bắt đầu vào nền kinh tế thị trường, chút nữa thì ngành toán biến mất lại có thể qua đi và vượt lên được là bởi vẫn có những người ham mê toán thực sự, "khổ nhưng vẫn làm".
Một may mắn nữa là trong giai đoạn ấy, viện có rất nhiều người xin được học bổng nước ngoài từ các nước Đức, Pháp, Nhật. Viện gần như là cơ sở nghiên cứu khoa học đầu tiên đi tìm được học bổng bên ngoài, không thuộc nhà nước.
Trong gần 10 năm trở lại đây, theo GS. Ngô Việt Trung, Viện trưởng Viện Toán học, chỉ với số lượng cán bộ là 70 người, viện đã có số lượng công trình khoa học quốc tế chiếm tới 57% tổng các số công trình toán học cả nước từ trước đến nay.
Nếu tính riêng các bài báo chất lượng cao, viện có  2/3 tổng số công trình cả nước đăng trong các tạp chí thuộc danh mục ISI (danh mục các tạp chí khoa học có chất lượng của Mỹ). So với thời kỳ trước năm 2000, số lượng bài báo trong danh mục ISI đã tăng gấp đôi.
Đóng góp lớn nhất của Viện Toán cho đất nước trong 40 năm qua, theo đánh giá của các GS Hà Huy Khoái "là nâng cao kiến thức chung về toán cho cả xã hội, nâng cao chất lượng giáo dục."  Còn theo GS Ngô Việt Trung, là "giữ cho trình độ khoa học của đất nước ở một tầm nhất định, đào tạo ra những người làm toán, các giảng viên toán cho các trường đại học".
GS Lê Dũng Tráng: ’Kính tặng nhân dân tôi’
 Toán học Việt Nam nhờ đó đã không còn bị cô lập so với thế giới, nhất là các nước Mỹ, Nhật và ở Châu Âu. Nhờ luồng gió mới mẻ ấy mà những người làm việc ở các nhóm nghiên cứu Toán học khác cũng "lây" tinh thần phấn chấn và được khích lệ để ganh đua"... Những đồng nghiệp của GS.TSKH Việt kiều Lê Dũng Tráng đã nói như vậy về tác động của ông, người âm thầm làm cầu nối đưa Toán học Việt Nam ra thế giới.
Trong những năm 1970, không thể không nhắc tới những trí thức Việt kiều trở về đóng góp cho khoa học nước nhà, trong đó có Toán học. GS Lê Dũng Tráng thời ấy đã về nước ngay sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ. Sự phát triển toán học trong nước lúc ấy đã bị bỏ xa so với thế giới nên sự trở về của những người như GS Tráng rất có ý nghĩa.

Sau những nỗ lực bắc những nhịp cầu thông với thế giới của GS Tráng, lần lượt, đã có thêm nhiều nhà Toán học nổi tiếng thế giới tìm đến Việt Nam, giảng bài cho sinh viên ở cả những vùng đã đi sơ tán, thông qua lời giới thiệu: "Ở Việt Nam, hiện đang có một nhóm làm Toán đi theo xu hướng hiện đại". Toán học Việt Nam nhờ đó đã không còn bị cô lập so với thế giới, nhất là các nước Mỹ, Nhật và ở Châu Âu.
Tại Mỹ năm 1974 , trong một hội thảo Toán học quốc tế (tổ chức 4 năm một lần và Việt Nam khi đó chưa có đại diện sang dự), TS Lê Dũng Tráng (từ Pháp sang với tư cách cá nhân) đã tự hào ghi tên Việt Nam lên một tấm bảng nhỏ, đặt giữa những tấm biển khác, sánh vai cùng các nước có nền Toán học phát triển. 
Toán học Việt Nam đi về đâu?
Mô tả ảnh.
GS Ngô Việt Trung: Định hướng lớn nhất hiện nay là thu hút giới trẻ vào Viện toán học.
"Khi hơn một nửa số người giỏi về toán đang ở nước ngoài", GS Khoái nói. "Nếu không có chính sách thu hút họ về mà để họ vĩnh viễn làm việc ở nước ngoài thì đó là một tai họa".
Tuy nhiên, thu hút họ về không chỉ là vấn đề tiền mà còn là không khí làm việc, người làm toán cũng cần có sự tự do tuyệt đối như Ngô Bảo Châu đã nói. Tuy nhiên, muốn thu hút họ về thì trước tiên phải đối xử khác với người làm việc ở trong nước. Nếu ưu tiên cho họ về mức lương mà người trong nước vẫn bị đối xử về lương kém hơn thì họ cũng không muốn. 
Đó là chưa kể, môi trường nghiên cứu ở Việt Nam vẫn thua ở các nước phát triển ở một điểm, chẳng hạn như ở Mỹ, các hãng lớn ủng hộ khoa học rất nhiều tiền nghiên cứu mà không đòi hỏi ngay một cái gì đó. Sở dĩ họ đầu tư mà không cần thu lợi ngay trước mắt là bởi họ hiểu về lâu dài, họ sẽ có nguồn nhân lực tốt. 
GS Hà Huy Khoái: Phải phiêu lưu một chút
Con người nên thay đổi và dám thay đổi. Phải phiêu lưu một chút. Và, những người ít bị trói buộc bởi các hệ tư tưởng đã được "đóng đinh", đã được công nhận... là những người dễ thích ứng và thành công. Những nhân tố ấy thường mang lại động lực cho sự phát triển xã hội
GS Ngô Việt Trung cho biết: Định hướng lớn nhất ở viện hiện nay là thu hút giới trẻ vào làm việc. Mỗi năm Viện giúp một hai em đi nghiên cứu ở nước ngoài và hy vọng các em trở về, tuy nhiên, sau đó có về hay không thì không ai dám chắc.
Đội ngũ người làm toán giỏi đã già mất rồi, chẳng hạn ngành toán tối ưu của GS Tụy, giờ người trẻ nhất ở đây đã gần 50 tuổi! Những ngành như xác xuất thống kê, toán ứng dụng không có người kế cận, chỉ có những người sắp đến tuổi về hưu.
Theo GS Trung, lực lượng người làm toán ở VN hiện nay chỉ bằng một khoa toán của một trường ĐH cỡ trung bình ở châu Âu. Nếu tính số lượng số công trình được công bố thì còn ít hơn. Hằng năm, viện công bố khoảng 70 công trình nghiên cứu. 
Nhà toán học trẻ Phùng Hồ Hải. Ảnh: Tú Uyên
Nhà toán học trẻ Phùng Hồ Hải. Ảnh: Tú Uyên
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, mức lương của một nhà toán học chỉ khoảng trên dưới 35 triệu/năm, trong khi đó, mức lương trung bình của một nhà toán học tại Mỹ là 100 ngàn đô la/năm.
 Nhà toán học trẻ Phùng Hồ Hải có thể nói là một trong những người hiếm hoi quyết định trở về Việt Nam và nhận mức lương khiêm tốn, mặc dù anh có thể tìm kiếm một công việc tốt, thu nhập cao và ổn định tại nước ngoài.
"Sự chọn lựa này hoàn toàn là ý thích cá nhân. Giảng dạy toán cho giảng viên và sinh viên, học sinh trong nước thú vị hơn giảng cho SV nước ngoài" - anh giải thích.
Theo anh, về nước làm việc, không thể nói là bị hoàn toàn cô lập với các hoạt động nghiên cứu ở nước ngoài. 
GS Ngô Bảo Châu: "Tinh thần thương yêu, đoàn kết của cộng đồng toán học Việt Nam rất hiếm hoi, đáng quí"
Khoa học của nước ta nói chung, và toán học nói riêng, chưa có một vị trí xuất sắc trên thế giới, nhưng nếu không có tinh thần đoàn kết, thương yêu nhau, cùng với tinh thần nghiêm khắc, không bao che cho những yếu kém về học thuật, thì toán học Việt Nam cũng như các ngành khoa học khác, sẽ không có bất kỳ một cơ hội nào để tiến bộ.
Trong máy tính của anh là một kho sách về toán tải miễn phí từ trên mạng. Anh vẫn có liên hệ với các trường ĐH nơi mình từng làm việc để tìm được những công bố mới nhất. Nhưng quả thật , có bị hạn chế vì chỉ có thể trao đổi qua e-mail mà không gặp gỡ trực tiếp được.
Ở nước ngoài, các nhà toán học được tập trung vào công việc của mình nhiều hơn, trong khi ở Việt Nam, các nhà toán học phải đi làm thêm mới đủ sống.
Theo GS Phùng Hồ Hải, muốn phát triển ngành toán thì phải quan tâm từ thế hệ HS nhỏ tuổi.
Ở Việt Nam, học sinh vẫn là những "thợ giải bài tập". Đó là bởi thông thường các bài toán cao cấp được thay đổi để trở thành bài toán sơ cấp, HS giải bài toán ấy dựa trên sự thông minh chứ không dựa trên kiến thức cao hơn để giải, ngược lại hoàn toàn với các nước phát triển.
Những nước có nền toán học phát triển mạnh đào tạo được đội ngũ kế cận rất tốt. Chẳng hạn như Hà Lan, đất nước chỉ có 10 triệu dân nhưng có lực lượng toán học mạnh hơn VN rất nhiều lần, họ không có thành tích gì nổi bật trong các kỳ thi Olympic toán quốc tế, nhưng họ chính là người ra nhiều đề hay nhất cho các kỳ thi này.
"Ở Việt Nam, hãy bắt đầu từ việc nhỏ, đó là cần phải kết nối những nhà làm toán, nghiên cứu về toán với HS phổ thông, tạo cho họ sự đam mê vì hiện HS Việt Nam chỉ học để đi thi cho tốt chứ không phải học để biết", Phùng Hồ Hải nhấn mạnh.
  • tuyensinhvnn.com (Theo VNN)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Viện đã ứng dụng các phương pháp toán học để lập phương án đảm bảo giao thông thời chiến, giải tỏa ách tắc xe cộ ở những nơi trọng điểm hay bị địch oanh tạc, để nổ mìn định hướng xây dựng các tuyến giao thông.
Trong thời kỳ kiến thiết và xây dựng đất nước, Viện đã tham gia:
- Giải quyết các bài toán về quy hoạch và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, về tính thấm trên công trình thủy điện sông Đà, Trị An và một số công trình khác.
- Tính toán và giải quyết một số bài toán về ô nhiễm dầu trên mặt biển, bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác dầu khí ở biển Đông.
- Cài đặt và áp dụng nhiều bộ chương trình thống kê để phân tích, xử lý số liệu.
- Xây dựng hệ mật mã khóa công khai và ứng dụng trong việc bảo mật thông tin trong truyền tin.
- Xây dựng phần mềm sản xuất tin dự báo sớm bão để phát trên truyền thình, Internet....